Dòng sông kỳ bí
Phan_12
Không chỉ là loại xe. Mà trên đời này không có chiếc xe nào khác giống như thế. Đó chính là xe của con bé. Từ vệt móp phía bên phải thanh giảm xóc đằng trước tới miếng kính bị vỡ phía trên chiếc đèn pha.
“Chúa ơi, Jimmy, Jimmy, Jimmy! Nhìn tôi này. Anh không sao chứ?”
Jimmy ngẩng đầu lên nhìn Ed Deveau, không biết chuyện gì đã xảy ra nữa, tại sao hắn lại quỳ ở đây, hai tay tì xuống đất, xung quanh là những gương mặt Ailen tròn trịa đang quan sát hắn.
“Jimmy, anh không sao chứ?” Deveau chìa tay ra cho hắn.
Jimmy nhìn bàn tay đang chìa ra cho mình và không biết phải trả lời như thế nào. Người nhái, hắn nghĩ. Đang ở dưới con kênh.
Whitey tìm thấy Sean ở giữa đám cây cối, cách con vực nhỏ lúc nãy khoảng một trăm mét. Họ đã bị mất dấu vết, các vết máu và dấu chân tiếp theo đã bị cơn mưa đêm qua xoá sạch.
“Lũ chó vừa đánh hơi ra vài thứ ở khu vực màn hình chiếu phim cũ. Cậu muốn tới đó xem không?”
Sean gật đầu vừa lúc máy bộ đàm của anh phát ra tín hiệu.
“Nhân viên Devine nghe đây.”
“Chúng tôi có rắc rối với một gã ở đằng trước công viên...”
“Ở cổng nào?”
“Cổng phía phố Sydney.”
“Nói tiếp đi.”
“Hắn bảo là cha của cô gái bị mất tích.”
“Hắn ta tới hiện trường làm cái quái gì vậy?” Sean cảm thấy như máu đang dồn lên mặt anh đỏ phừng phừng.
“Hắn đã chui vào được bên trong. Tôi sẽ phải làm gì với hắn bây giờ?”
“Đẩy hắn ra. Anh có bác sĩ tâm lý nào ở đó không?”
“Đang trên đường tới.”
Sean nhắm mắt lại. Ai cũng đang trên đường như thể tất cả bọn họ đều bị tắc nghẽn giao thông cùng một lúc.
“Vậy hãy cố giữ cho người cha bình tĩnh tới lúc bác sĩ tâm lý xuất hiện. Anh biết phải làm thế nào rồi đấy.”
“Vâng, nhưng mà hắn ta đòi gặp anh.”
“Tôi á?”
“Nói là hắn quen anh. Có ai đó bảo hắn là anh đang ở đây.”
“Ôi không không, không. Nghe này...”
“Còn có mấy gã nữa đi cùng hắn.”
“Mấy gã như thế nào?”
“Một đám mặt mũi trông rất đáng sợ. Tất cả trông giống hệt nhau, phân nửa bọn chúng trông như sắp sửa muốn động chân động tay đến nơi.”
Chết tiệt. Là anh em nhà Savage.
“Tôi tới đây,” Sean nói.
Vẻ hung hăng của Val Savage có thể khiến hắn bị bắt giữ bất cứ lúc nào. Chuck cũng vậy, dòng máu nhà Savage của bọn họ, gần như chẳng bao giờ hạ hoả, lúc nào cũng sôi sùng sục, cả đám anh em nhà Savage đang gào thét chửi bới cảnh sát, còn cảnh sát thì trông như sắp nổi cơn thịnh nộ đến nơi.
Jimmy đứng bên cạnh Kevin Savage, người được coi là bình tĩnh nhất trong số anh em bọn họ, cách dải băng phong toả hiện trường vài mét, chỗ Val và Chuck đang chỉ vào mặt cảnh sát bảo rằng: cháu gái chúng tao đang ở đó, lũ ngu ngốc, rác rưởi đê tiện kia.
Jimmy có cảm giác như đang phải kiềm chế một cơn thịnh nộ, một nhu cầu chực bùng nổ khiến cả người hắn tê liệt và hơi hoảng loạn. Đồng ý đó là xe của con bé, nằm cách đó ba mét. Đồng ý là không ai nhìn thấy nó kể từ đêm hôm qua. Và vệt máu hắn nhìn thấy trên ghế lái xe. Đúng là không có dấu hiệu tốt. Nhưng có đến một tiểu đoàn cảnh sát đang tìm kiếm khắp nơi mà vẫn chưa thấy khiêng cái xác nào ra. Vậy chưa nên kết luận gì cả.
Thấy một viên cảnh sát lớn tuổi châm thuốc hút, Jimmy chỉ muốn giật điếu thuốc ra khỏi miệng ông ta rồi nhét một viên than nóng vào mũi rồi bảo, cút trở lại tìm con gái cho ta.
Hắn cố đếm tới mười, một mẹo nhỏ mà hắn học được ở trong tù, rất chậm rãi, nhìn thấy từng con số hiện ra, màu xám, bồng bềnh giữa khoảng tối trong đầu hắn. La hét ầm ĩ có thể khiến hắn bị lôi ra khỏi hiện trường. Bất cứ biểu hiện nào, đau thương, lo lắng hay cảm giác sợ hãi như dòng điện chạy giần giật trong huyết quản của hắn, cũng có thể gây ra hậu quả tương tự. Và rồi đám anh em nhà Savage sẽ giống thùng thuốc súng phát nổ và sẽ bị nhốt hết lại trong trại giam thay vì ở ngoài điều tra xem lần cuối cùng con gái hắn xuất hiện ở đâu.
“Val,” hắn gọi.
Val rút bàn tay đang đè lên dải băng phong toả hiện trường, những ngón tay chĩa vào khuôn mặt lạnh lùng của cảnh sát và quay lại nhìn Jimmy.
Jimmy lắc đầu bảo hắn, “Bớt nóng đi.”
Val vặc lại. “Là bọn khốn này ngăn cản chúng ta. Là do chúng cố tình chặn chúng ta lại.”
“Họ chỉ làm việc của mình thôi,” Jimmy nói.
“Việc chó gì, Jimmy? Nể cậu mới nói nhé, chỗ của chúng là ở cửa hàng bánh ngọt đầu kia kìa.”
“Thế các anh có định giúp tôi không vậy?” Jimmy nói. Lúc này Chuck cũng ra đứng cạnh anh trai hắn, dù trông hắn cao gấp đôi Val và chỉ hung dữ bằng một nửa thì tất cả những người ở đây cũng không ai là đối thủ của hắn.
“Dĩ nhiên rồi,” Chuck nói. “Nói cho chúng tôi biết phải làm gì?”
“Val này,” Jimmy gọi.
“Cái gì?” Val trợn mắt nói, cả người như bốc ra mùi giận dữ.
“Cậu có muốn giúp tôi không?”
“Có, có, có, tôi muốn giúp cậu Jimmy. Mẹ kiếp, cậu biết mà!”
“Tôi biết,” Jimmy nói, cảm thấy mình sắp sửa cao giọng đến nơi nên cố nén xuống. “Tôi biết chứ, Val. Là con gái của tôi ở trong đó. Cậu có nghe thấy tôi nói gì không?”
Kevin đặt tay lên vai Jimmy còn Val lùi lại một bước và nhìn xuống chân mình trong giây lát.
“Xin lỗi cậu Jimmy. Được chứ? Chỉ là lên cơn một tí thôi. Mẹ kiếp.”
Jimmy lấy lại giọng nói bình tĩnh, cố gắng suy nghĩ một cách minh mẫn. “Val, cậu và Kevin hãy tới nhà Drew Pigeon. Kể cho anh ta chuyện gì đang xảy ra.”
“Drew Pigeon? Để làm gì?”
“Nghe này, Val. Cậu hãy nói chuyện với con gái của anh ta, Eve, và cả Diane Cestra nữa nếu con bé vẫn còn ở đó. Cậu hỏi hai đứa xem lần cuối chúng nhìn thấy Katie là khi nào. Chính xác là mấy giờ. Hỏi xem chúng có uống rượu không, Katie có định gặp ai không và hiện nó đang hẹn hò với đứa nào. Cậu có thể làm tất cả những gì tôi dặn không, Val?” Jimmy nói và nhìn sang Kevin, hy vọng anh ta có thể để mắt tới anh trai mình.
Kevin liền gật đầu bảo, “Chúng tôi làm được.”
“Cậu thì sao, Val?”
Val quay sang liếc nhìn bãi cỏ trước công viên rồi quay về Jimmy bảo, “Được rồi, được rồi.”
“Hai đứa đó là bạn của Katie. Cậu không cần phải dùng biện pháp cứng rắn nhưng nhất định phải có câu trả lời. Được chứ?”
“Được rồi,” Kevin nói và ra hiệu cho Jimmy là anh ta sẽ thu xếp ổn thoả, đoạn vỗ vai anh trai mình bảo, “Thôi nào, Val. Đi thôi.”
Jimmy nhìn theo hai người bọn họ rẽ lên phố Sydney và cảm thấy Chuck đang đứng cạnh mình, vẻ bồn chồn không yên, như đang muốn giết người.
“Cậu ổn chứ?”
“Mẹ kiếp, tôi không sao. Là tôi lo cho anh thì có.” Chuck nói.
“Không cần phải lo lắng. Hiện giờ tôi vẫn ổn. Cũng chẳng có cách nào khác, đúng không?”
Không thấy Chuck trả lời, Jimmy nhìn sang bên kia đường, qua chiếc xe ô tô của con gái và thấy Sean Devine đang bước ra khỏi công viên tới bãi cỏ đằng trước, mắt không rời khỏi hắn. Sean cao lớn, lại di chuyển rất nhanh nhưng Jimmy vẫn nhìn thấy cái vẻ mà hắn vẫn rất ghét trên gương mặt anh, cái vẻ của một người đàn ông dễ dàng có được mọi thứ, cái vẻ mặt ấy, giống như một thứ phù hiệu mà anh mang trên người, to hơn cả cái phù hiệu cảnh sát gài ở thắt lưng, khiến mọi người đều phải kiêng dè, dù bản thân Sean không hề ý thức về điều đó.
“Jimmy.” Sean bắt tay hắn và nói, “Chào cậu.”
“Xin chào, Sean. Nghe nói cậu ở trong đó.”
“Từ sáng sớm.” Sean quay đầu nhìn về phía sau rồi trở lại đối diện với Jimmy. “Jimmy, hiện giờ, tôi chưa thể nói gì cho cậu được.”
“Con bé có ở trong đó không?” Jimmy có thể nghe thấy giọng nói của hắn rung lên.
“Jim, tôi không biết. Chúng tôi chưa tìm thấy con bé. Tôi chỉ có thể nói với cậu vậy thôi.”
“Vậy hãy để chúng tôi vào đó,” Chuck nói. “Chúng tôi có thể giúp các anh tìm kiếm. Báo chí vẫn thấy đưa tin như thế mà, người dân giúp cảnh sát tìm kiếm những đứa trẻ mất tích, mẹ kiếp.”
Sean vẫn nhìn chằm chằm vào Jimmy như thể Chuck không hề tồn tại. “Không đơn giản như thế, Jimmy. Chúng tôi không thể để những người không nhiệm vụ vào đó trước khi lục soát toàn bộ hiện trường.”
“Hiện trường ở đâu?” Jimmy hỏi.
“Cho tới lúc này thì là toàn bộ cái công viên khốn kiếp. Nghe này...” - Sean vừa nói vừa vỗ vai Jimmy - “Tôi ra đây để nói với các anh là các anh không thể manh động lúc này. Tôi rất lấy làm tiếc. Tôi nói thật lòng. Nhưng nguyên tắc là thế. Nếu chúng tôi phát hiện ra điều gì, bất cứ điều gì, Jimmy, tôi sẽ lập tức báo cho cậu. Tôi nói nghiêm túc đấy.”
Jimmy gật đầu rồi túm lấy khuỷu tay Sean bảo, “Tôi có thể nói chuyện riêng với cậu một chút không?”
“Dĩ nhiên rồi.”
Họ bỏ Chuck đứng lại một mình trên vỉa hè và rời khỏi cách chỗ đó vài mét. Sean chuẩn bị tinh thần đối mặt với bất cứ điều gì Jimmy muốn nói, đó là công việc của anh, anh nhìn Jimmy bằng đôi mắt nghiệp vụ của cảnh sát, lạnh lùng, không chút biểu cảm.
“Đó là xe của con gái tôi,” Jimmy nói.
“Tôi biết. Tôi...”
Jimmy giơ một tay lên. “Sean? Đó là xe con gái tôi. Trong đó lại còn có vết máu. Con bé không xuất hiện ở chỗ làm sáng nay, cũng không tới dự lễ ban thánh thể lần đầu tiên của em gái nó. Không ai nhìn thấy nó kể từ đêm hôm qua. Cậu hiểu rồi chứ? Sean, là chúng ta đang nói về con gái tôi. Cậu không có con. Tôi không hy vọng cậu hiểu được chuyện đó nhưng anh bạn, làm ơn đi, đó là con gái tôi mà.”
Sean vẫn giữ nguyên cái nhìn nghiệp vụ của cảnh sát, không hề thay đổi. Jimmy thậm chí không khiến anh chớp mắt.
“Cậu muốn tôi phải nói sao hả Jimmy? Nếu cậu muốn nói cho tôi biết đêm qua con bé ở với ai, tôi sẽ cử người tới thẩm vấn. Nếu con bé có kẻ thù, tôi sẽ tóm chúng lại. Cậu muốn...”
“Họ dẫn cả chó tới, Sean. Chó đánh hơi, để tìm con gái tôi. Chó và cả người nhái nữa.”
“Đúng vậy. Có tới nửa lực lượng cảnh sát đã được triển khai ở đây, Jimmy. Cả cảnh sát bang lẫn cảnh sát thành phố. Hai trực thăng, hai tàu thuỷ và chúng tôi sẽ tìm thấy con bé. Nhưng cậu, cậu không nên làm gì cả. Nhất là trong lúc này. Không nên làm gì cả. Cậu rõ rồi chứ?”
Jimmy quay lại nhìn Chuck lúc này đang đứng trên vỉa hè mắt nhìn về phía bãi cỏ trước công viên, người hơi nghiêng về phía trước như chực lao đi.
“Tại sao lại cần tới cả người nhái đi tìm con gái tôi hả Sean?”
“Chúng tôi không thể bỏ sót khả năng nào, Jimmy. Ở đây có một con kênh nên phải tìm kiếm thôi.”
“Con bé ở dưới nước à?”
“Hiện giờ tất cả những gì chúng tôi có là con bé bị mất tích mà thôi, Jimmy. Chỉ có vậy.”
Jimmy quay đi chỗ khác một lúc, đầu óc không còn suy nghĩ được gì nữa, chỉ thấy tối sầm và mất phương hướng. Hắn chỉ muốn được đi vào trong công viên. Muốn đi theo con đường chạy bộ và nhìn thấy Katie đang tiến về phía hắn. Đầu óc hắn không còn hoạt động nữa. Hắn chỉ muốn vào trong đó.
“Cậu muốn làm cho mọi chuyện trở nên ầm ĩ trước bàn dân thiên hạ sao?” Jimmy hỏi. “Cậu muốn bắt tôi và từng người một trong gia đình Savage chỉ vì chúng tôi muốn tới đây để đi tìm người thân ư?”
Lời nói vừa ra khỏi miệng, Jimmy lập tức nhận ra rằng đó chỉ là một lời đe doạ suông, chỉ là một cái cớ và tệ nhất là Sean cũng nhận ra điều đó.
Sean gật đầu bảo, “Tôi cũng không muốn thế. Tin tôi đi. Nhưng nếu phải làm vậy, Jimmy, thì tôi sẽ không nhượng bộ.” Sean mở quyển sổ ghi chép ra và bảo, “Nghe này, hãy cho tôi biết đêm qua con bé đã ở với ai, làm gì và tôi sẽ...”
Jimmy vừa rảo bước bỏ đi thì máy bộ đàm của Sean rung lên ầm ĩ. Jimmy liền quay đầu lại nhìn Sean đưa máy lên miệng và bảo với đầu dây bên kia, “Nói đi.”
“Chúng tôi tìm thấy một thứ.”
“Nhắc lại đi.”
Jimmy bước lại gần Sean, nghe thấy giọng nói đang cố kiềm chế cảm xúc của người ở đầu dây bên kia.
“Tôi nói là chúng tôi tìm thấy một thứ. Trung sĩ Powers cần anh quay lại đây càng nhanh càng tốt. Có lẽ là ngay lập tức.”
“Các anh đang ở đâu?”
“Chỗ màn hình chiếu phim. Mà nói cho anh biết luôn, quang cảnh ở đây thực sự hãi hùng.”
10. Bằng chứng
Celeste xem bản tin truyền hình lúc mười hai giờ trưa trong bếp. Cô vừa là quần áo vừa theo dõi vô tuyến và chợt nhận ra rằng trông cô lúc này giống như một bà nội trợ điển hình của những năm 1950, quanh quẩn làm việc nhà, chăm sóc con cái trong khi chồng mang cặp lồng sắt đựng bữa trưa đi làm rồi trở về với bữa tối đã được dọn sẵn trên bàn và đồ uống phục vụ tận tay. Nhưng thực tế thì không phải vậy. Dave có thể có nhược điểm này nọ nhưng lại là một người rất chịu khó làm việc nhà. Anh đồng thời là máy lau nhà, hút bụi, máy rửa bát trong khi Celeste lại thích chọn công việc giặt giũ, gấp và là quần áo, tận hưởng sự ấm áp, phẳng phiu của vải vóc lúc mới giặt xong.
Cô vẫn luôn sử dụng chiếc bàn là cũ kỹ của mẹ cô, một vật chế tác từ đầu những năm sáu mươi. Nó nặng như một cục gạch, kêu rít ầm ĩ, thỉnh thoảng lại bất chợt phả ra một đám hơi nước nóng hổi nhưng lại hiệu quả hơn bất kỳ chiếc bàn là hiện đại nào mà Celeste từng thử suốt mấy năm qua sau khi bị dụ dỗ bởi những chiêu giảm giá hay quảng cáo về công nghệ mới. Chiếc bàn là này có thể tạo ra những đường li sắc như dao và là phẳng những nếp nhăn dày một cách nhẹ nhàng trong khi những chiếc bàn là vỏ nhựa mới cứ phải lăn đi lăn lại tới chục bận.
Đôi khi Celeste không khỏi phẫn nộ khi nghĩ tới xu hướng sản xuất tiêu dùng hiện nay, mọi thứ đều rất nhanh hỏng, để khiến người ta liên tục phải mua đồ mới - đầu đĩa, xe hơi, máy vi tính, điện thoại di động - trong khi những dụng cụ thời bố mẹ cô thì rất bền, toàn những thứ nồi đồng cối đá. Cô và Dave vẫn sử dụng chiếc bàn là và máy xay sinh tố của mẹ cô để lại, cả cái điện thoại quay tay màu đen chồm hỗm cạnh giường cũng là của bà. Thế mà trong những năm chung sống với nhau họ đã vứt đi không biết bao nhiêu đồ vật hỏng hóc trước thời hạn - những chiếc ti vi cháy bóng hình, máy hút bụi nhả khói xanh, máy cà phê chỉ cho ra nước nguội ngắt. Những thiết bị gia dụng kiểu này đều có kết cục ngoài bãi rác vì mua đồ mới gần như rẻ hơn là mang đi chữa. Gần như là thế. Nên mọi người thường thà bỏ tiền ra mua thiết bị thế hệ mới hơn là đi chữa đồ cũ, và đó chính là điều mà các nhà sản xuất toan tính. Đôi khi Celeste nhận ra rằng chính cô đang cố tình phớt lờ quan niệm cho rằng không riêng gì những đồ vật đó mà ngay cả bản thân cô cũng không phải là một thực thể bền vững hay có trọng lượng gì, cũng chỉ là một thứ được lập trình và sẽ ngừng hoạt động tại một thời điểm thích hợp để có thể tái sinh một số bộ phận còn hữu dụng cho người khác trong khi phần còn lại sẽ vĩnh viễn biến mất.
Trong lúc cô đứng đó là quần áo và suy ngẫm về sự đào thải tự nhiên của bản thân thì chương trình tin tức đã phát được gần mười phút, người dẫn chương trình lúc này nhìn thẳng vào ống kính và tuyên bố với vẻ nghiêm trọng rằng cảnh sát đang truy tìm hung thủ một vụ tấn công dã man bên ngoài một quán bar trong thành phố. Celeste lại gần chiếc ti vi định bật to tiếng lên thì vừa lúc người dẫn chương trình thông báo, “Chúng tôi sẽ tiếp tục đưa tin về sự kiện này và tiết mục dự báo thời tiết của Harvey sau mục quảng cáo.” Kế đó trên màn hình xuất hiện một người phụ nữ với một đôi tay được chăm sóc và làm móng cẩn thận đang chà rửa một chiếc đĩa bẩn như vừa bị nhúng vào nồi kẹo kéo, bên tai văng vẳng lời khoa trương về lợi ích của một loại xà phòng rửa bát mới, công nghệ cải tiến khiến Celeste những muốn rú lên vì bất bình. Tin tức trên một khía cạnh nào đó cũng giống hệt như các thiết bị gia dụng được sản xuất để mồi chài và câu dẫn, cười nhạo sự mù quáng của khán giả đối với sản phẩm cũ đồng thời ra sức hứa hẹn về ưu điểm của các sản phẩm mới.
Celeste vừa điều chỉnh âm lượng vừa cố kiềm chế để khỏi bẻ gãy cái nút công tắc ti vi của nợ ấy đi và quay trở lại với việc là quần áo. Dave đã dẫn Michael đi mua băng bảo vệ đầu gối và mặt nạ bảo hiểm bóng chày từ nửa tiếng trước và nói là sẽ theo dõi bản tin trên đài, Celeste cũng chả buồn ngó xem anh có nói thật hay không. Michael, gầy gò và nhỏ bé như thế nhưng đã chứng tỏ là một tay bắt bóng tài năng - một “thần đồng”, như ông Evans, huấn luyện viên của thằng bé, nhận xét với “những cú đập bóng thần tốc” đối với một đứa trẻ và sức vóc ở tuổi nó. Celeste thì nghĩ tới những đứa trẻ mà cô từng chứng kiến trưởng thành chơi ở vị trí đó, thường là những đứa trẻ to lớn, mũi bị đập bẹp, răng cửa gãy sạch và đem nỗi lo ấy ra nói với Dave.
“Em yêu, mặt nạ bóng chày bây giờ chắc như lồng cá mập. Xe tải đâm vào thì chỉ có xe tải vỡ,” Dave nói.
Celeste suy nghĩ hết một ngày rồi đưa ra yêu cầu với Dave. Michael có thể chơi ở vị trí bắt bóng hay bất cứ vị trí nào của môn bóng chày với điều kiện trang thiết bị của thằng bé phải là loại tốt nhất và quan trọng nhất là không được trở thành cầu thủ bóng bầu dục chuyên nghiệp.
Dave, bản thân cũng chưa từng là cầu thủ bóng bầu dục, lập tức đồng ý sau mười phút tranh luận lấy lệ.
Thế nên bây giờ hai cha con họ ra ngoài mua trang thiết bị để Michael có thể trở thành bản sao của cha mình ngày xưa trong khi Celeste ngồi nhìn chằm chằm vào ti vi, chiếc bàn là đặt ở bên cạnh trên một chiếc áo sơ mi bằng vải cô tông. Mẩu quảng cáo thức ăn cho chó vừa kết thúc và bản tin tiếp tục.
“Đêm hôm qua tại Allston,” người đưa tin nói, tim Celeste như chùng xuống, “một sinh viên năm thứ hai đại học Boston bị hai người đàn ông tấn công bên ngoài một vũ trường có tiếng. Các nguồn tin cho biết nạn nhân là Carey Whitaker, đã bị đánh trọng thương bằng vỏ chai bia, hiện đang trong tình trạng nguy kịch tại...”
Miệng khô cứng như vừa nuốt phải cát, Celeste biết là sẽ không có tin tức gì về vụ tấn công hay sát hại một người đàn ông trước quán Last Drop. Sau khi vô tuyến chuyển sang mục thời tiết và thông báo sẽ quay lại với mục tin thể thao thì cô hoàn toàn chắc chắn.
Cho tới giờ, hẳn họ đã phải tìm ra người đàn ông đó nếu như hắn ta đã chết (“Em yêu, anh có thể đã giết chết một người”), đám phóng viên thế nào chả túm được tin tức này từ các nguồn của họ hay nhờ nghe ngóng đường dây liên lạc nội bộ của cảnh sát.
Có lẽ Dave đã hơi phóng đại cơn thịnh nộ của mình đối với tên cướp đó. Có thể sau khi Dave bỏ đi, tên cướp kia đã kịp lẩn trốn đâu đó để chăm sóc vết thương của mình. Có lẽ thứ cô tẩy rửa khỏi đám quần áo đêm trước không phải là óc người. Nhưng tất cả số máu ấy? Làm sao mà một người bị mất chừng ấy máu có thể sống sót được, chứ chưa nói tới chuyện chạy trốn?
Sau khi đã là xong chiếc quần cuối cùng và xếp mọi thứ gọn ghẽ vào trong ngăn tủ của Michael và hai vợ chồng, Celeste quay trở lại đứng sừng sững ở giữa bếp không biết phải làm gì tiếp theo. Trên vô tuyến người ta đang chơi gôn. Tiếng gậy đập khẽ vào bóng, tiếng vỗ tay lác đác, khô khốc tạm thời làm đầu óc của cô bình tĩnh trở lại sau cơn nhức nhối suốt buổi sáng. Nhức nhối không chỉ vì những vấn đề giữa hai người bọn họ hay những lỗ hổng trong câu chuyện của Dave mà còn vì một điều gì đó mà cô không cắt nghĩa nổi, có liên quan tới hai chuyện kia đồng thời với những gì xảy ra đêm hôm trước khi Dave xuất hiện trên ngưỡng cửa buồng tắm người đầy máu, máu từ trên quần anh chảy xuống thành vũng trên sàn nhà, máu nổi bong bóng trên miệng vết thương ở sườn anh hay đám máu nhạt màu trôi theo dòng nước xuống cống.
Ống thoát nước. Đúng vậy. Chính là thứ mà cô quên bẵng đi mất. Đêm trước, cô có bảo với Dave là cô sẽ rửa sạch ống thoát nước phía dưới bồn rửa để xoá đi những dấu vết cuối cùng. Cô lập tức bắt tay vào việc. Cô lại gần bồn rửa, quỳ xuống sàn mở cánh cửa tủ ở phía dưới, nhìn xuyên qua đống khăn lau và các loại nước tẩy rửa và thấy chiếc mỏ lết dùng để vặn ống nước nằm ở góc trong cùng. Cô thò tay vào đó, cố gắng vượt qua nỗi ám ảnh sợ hãi mà cô vẫn thường nghĩ tới mỗi khi thò tay xuống dưới gầm bồn rửa, một nỗi sợ hãi phi lý rằng có một con chuột đang nằm đó rình mò giữa đám khăn lau, khịt khịt mũi khi ngửi thấy mùi thịt người, nhấc cái mõm đen kịt của nó lên, hai hàm râu rung rinh...
Cô chộp lấy chiếc mỏ lết rồi lôi vội nó ra khỏi đám khăn lau và các chai lọ đựng nước tẩy rửa, thừa biết nỗi sợ hãi của mình thật là ngớ ngẩn, nhưng ai chả có những nỗi ám ảnh sợ hãi tương tự. Celeste thì ghét thò tay vào những chỗ ẩm thấp, tối tăm. Mẹ cô thì sợ thang máy, cha cô thì sợ độ cao. Dave thì toát mồ hôi lạnh mỗi khi phải đi xuống hầm rượu.
Cô đặt một cái xô xuống dưới để hứng nước rồi nằm ngửa ra sàn và dùng chiếc mỏ lết vặn ống nước cho tới khi nó rời ra, nước chảy xối xuống xô. Cô những lo nước sẽ tràn ra ngoài nhưng chẳng mấy chốc nước chảy chậm lại và chỉ còn nhỏ giọt, một cụm tóc rối sẫm màu và vài hạt ngô là những thứ cuối cùng rơi vào trong xô. Tiếp đó tới lượt chiếc vòng ốc nằm sát thành tủ phía sau khiến cô phải loay hoay mất một lúc. Lúc đầu chiếc vòng ốc không hề nhúc nhích khiến Celeste phải dùng chân tì vào thành tủ để lấy đà đồng thời dùng hết sức kéo chiếc mỏ lết, chỉ sợ hoặc là cổ tay hoặc là chiếc mỏ lết sẽ gãy làm đôi. Và rồi chiếc vòng ốc bắt đầu xoay nhưng chỉ được vài mi li mét tạo ra một tiếng rít chói tai. Celeste lại làm lại từ đầu, lần này chiếc vòng ốc đã lỏng ra nhiều hơn nhưng vẫn chưa hoàn toàn khuất phục.
Vài phút sau, Celeste lấy ra được toàn bộ đoạn ống nước và đặt nó xuống sàn bếp, ngay trước mặt mình. Tóc và áo cô ướt đẫm mồ hôi nhưng trong lòng cảm thấy vô cùng hỉ hả, một loại cảm giác chiến thắng như thể vừa chiến đấu giáp lá cà với một thế lực nam tính và ngoan cố những đã giành thắng lợi. Trong đám khăn lau, cô tìm thấy một chiếc áo cũ của Michael và xoắn nó lại cho tới khi có thể xuyên nó vào trong ống nước. Cô dùng cách đó để cọ sạch phía bên trong ống nước nhiều lần cho tới khi không còn gì sót lại ngoài những gỉ sắt cũ rồi nhét chiếc áo vào trong một túi ni lông đựng rau quả. Sau đó cô dùng nước javel tẩy sạch một lần nữa bên trong ống nước, cho javel chảy từ đầu này sang đầu kia rồi đổ hết vào một chậu cây đã chết từ mùa hè năm ngoái nằm lăn lóc ngoài ngưỡng cửa suốt cả mùa đông.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian